NAN TIÊN NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO LỚN NHẤT NAM BÁN CẦU
NAN TIEN TEMPLE - WOLLONGGONG - NSW Chùa Nan
Tien (Nan Tien Temple) được gọi là "Nam thiên đàng" là ngôi chùa lớn
nhất ở Nam bán cầu, nằm trong khu vực Wollongong ở NSW, Australia. 

Năm 1990, Thị trưởng của Wollongong thảo luận kế
hoạch và hỗ trợ ý tưởng xây dựng một ngôi đền Phật giáo về việc phê duyệt và hỗ
trợ của tất cả các thành viên Hội đồng thành phố. Sau đó với diện tích đất 26 mẫu
Anh đã được hiến tặng để xây dựng ngôi đền. Lễ động thổ đã diễn ra vào ngày 28
Tháng 11 1991 và dự án bắt đầu vào năm 1992. Dự án này đã lập kế hoạch 5 năm và
2 năm xây dựng. Ngôi chùa này tập trung vào việc trao đổi các nền văn hóa Đông
và phương Tây, những trao đổi của các truyền thống và hiện đại; và cũng là
thích ứng với các cộng đồng địa phương. Chưa kể, việc nuôi dưỡng và giáo dục của
các tín đồ và công chúng nói chung. Trong mười năm qua, Nan Tien Temple đã trở
thành một trong những địa điểm ưa thích của nhóm nghiên cứu tôn giáo, trường học
và đi chơi dã ngoại nhóm cộng đồng. Nan Tien Temple cung cấp các sự kiện thường
xuyên, chẳng hạn như khóa tu thiền, du ngoạn, nghệ thuật và các lớp học nghề
v.v...
![]() |
Lối lên bảo tháp |
Nan Tien Temple không chỉ là một nơi thu hút Phật tử ở Sydney nhưng cũng
là một trong những điểm thu hút khách du lịch quốc tế nổi tiếng nhất. Nó thu
hút hàng trăm ngàn du khách từ khắp nơi trên thế giới quanh năm. Ngoài ra, nó
đóng một vai trò quan trọng của truyền bá Phật Pháp và thúc đẩy giao lưu và hài
hòa của các nền văn hóa Đông và phương Tây cũng như tất cả các tôn giáo.
![]() |
Bờ hồ trong chùa |
![]() |
Cảnh chùa |
![]() |
Một lối đi |
![]() |
Tiền sảnh chùa |
![]() |
Một hồ nước phía sau |
![]() |
Tượng phật di lặc |
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đọc thêm về Phật giáo Châu Úc:
Trong vòng mười năm
qua, số Phật tử Úc châu gia tăng gần gấp đôi. Nguyên do là những người di dân Á
châu từ xa đến định cư, sự nhiệt tâm và sùng đạo của họ chẳng những đã đem đến
sinh khí cho phần đất này mà hơn thế nữa đã lan rộng vào lòng người Úc châu gốc
Tây phương.
Trong một đường phố
thật ngăn nắp của thành phố Sydney, nếu không có một làn khói mỏng thoảng đưa
một mùi hương thơm vừa dịu lại vừa cay như mùi cỏ cháy nơi hoang dã, thì có lẽ
không có ai ngờ được là có một ngôi chùa nơi đây. Chẳng những ngôi chùa thu
mình sau một bức tường, mà bức tường cũng chẳng có một dấu hiệu gì đặc biệt,
nếu người đi đường không nhón chân để cố tình nhìn vào thì không thể nào thấy
được ngôi chùa bên trong. Ngôi chùa Sze Yup, có hai cánh cửa màu đỏ, màu đỏ của
hoa mào gà, quyện chặt với mùi thơm của khói hương, đã được những người di dân
Trung Quốc xây dựng từ hơn một thế kỷ nay trên một mảnh đất trồng rau. Từ lúc
thành lập, ngôi chùa vẫn sinh hoạt đều cho đến nay. Kín đáo nhưng sinh động và
phồn thịnh, giống như tính tò mò nhất thời nữa là hình ảnh chung của Phật
giáo Úc châu.
Vào năm 2001, Phật
giáo đã chính thức trở thành tôn giáo đứng hạng nhì ở Úc sau Thiên Chúa giáo,
với 358.000 Phật tử, tức 2% dân số. Số người Phật giáo gia tăng 80% so với lần
kiểm kê năm 1996, thật là một sự gia tăng chớp nhoáng và do đó đã biến Úc thành
một nước Tây phương có số Phật tử gia tăng nhanh nhất. Các viên chức thuộc Văn
phòng thống kê Úc châu, ngay từ năm 2001 đã phải thêm một ô mới là “Phật giáo”
trong tờ kiểm kê dân số. Các tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo trong khi
đó lại thu hẹp, trở nên già nua và không còn nhìn Phật giáo như là một thứ tôn
giáo có tính cách ngoại lai và mang đặc tính tò mò nhất thời nữa.
Lý cho chính là các
phong trào di dân Á châu đã làm cho làn sóng Phật giáo dâng cao. Một vài thương
gia người Trung Quốc ở Sydney, một số người Nhật mò ngọc trai định cư ở Broom
trên bờ biển phía Tây, một số người Sri Lanka dẵn mía định cư từ cuối thế kỷ
XIX trong vùng Queensland: chính những người này đã cùng nhau dựng lên ngôi
chùa Phật đầu tiên; ngôi chùa này tọa lạc ở một nơi thật xa xôi tận miền Bắc,
trên hòn đảo Thursday, trong một eo biển nơi mà mỏm đất của quần đảo Nam Dương
gần đụng vào lục địa ÚC châu. Những người Phật giáo Hindou từ các đảo Java và
Sumatra sử dụng thuyền đánh cá của người Nam Dương và mượn con đường biển này
để đến Úc châu.
Nhà nhân chủng học
người Úc là Adolphus Elkin nghiên cứu trong suốt cuộc đời ông về những bộ lạc
bản địa có viết một quyển sách về những chuyện ma thuật, trong đó ông có nói
đến việc thiền định và sự tin tưởng của người bản địa về hiện tượng tái sinh,
theo ông đây là những dấu tích cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo trên phần đất
này của Úc châu. Sự tiếp xúc giữa người bản địa nơi miền Bắc Úc châu và những
người Á châu từ xa đến đã xảy ra vào thế kỷ XV, có nghĩa là khoảng hai trăm năm
trước khi những nhà mạo hiểm Âu châu tiến vào mảnh đất “Terra australis” (tiếng
La tinh có nghĩa là: Đất phương nam) mà họ hằng mơ ước. Nhưng những người Phật
giáo chính thức đầu tiên đến Úc là những người cu-li Trung Quốc, họ đổ bộ lên
đất Úc để chạy theo phong trào đổ xô đi tìm vàng vào năm 1848. Đ61n năm 1925 họ
thành lập Tiểu hội Đạo pháp (The Little Cercle of the Dharma) và đặt trụ sở ở
Meelbourne, đây là hiệp hội Phật giáo lâu đời nhất trên đất Úc. Các hiệp hội
khác tiếp nối nhau ra đời sau đó, hầu hết các hiệp hội sau này đều do những
người Úc châu gốc Âu châu đứng ra thành lập, chẳng hạn trong số họ có ông Leo
Berkeley, một thương gia ở Sydney; bà Marie Byles, một trong những gương mặt
lớn nhất của Phật giáo Úc châu. Hầu hết những người này đã từng sống trong các
vùng Á châu và họ đã tiếp xúc với truyền thống Phật giáo. Họ hết sức say mê và
quyết tâm tu tập. Trong suốt tiền bán thế kỷ XX, môn đệ của Phật ở Úc châu rất
ít ỏi và không ai biết đến họ. Khởi sự từ năm 1950 trở đi, mới thấy hình thành
những nhóm tu học Phật pháp, các nhóm này đứng ra mời nhiều nhà sư và sư ni đến
Úc. Chồi ghép nở hoa từ đó. Ngoài những người Á châu giữ một vai trò theo chốt
đối với Phật giáo trong giai đoạn đầu, người ta chỉ thấy có vài người Âu
châu lẻ loi đứng ra quảng bá giáo lý của Phật. Hoàn cảnh lúc ấy thật bật lợi vì
chạm phải chủ trương tập trung mọi nỗ lực để bảo tồn văn hóa của nước Úc. Mãi
cho đến năm 1960, lúc ấy Chính phủ Úc mới bị dồn vào thế chống đỡ, phải làm bất
cứ gì để duy trì một nước Úc da trắng và theo đạo Ki-tô, và bảo vệ “tiền đồn
của giống dân Anh quốc trong vùng biển phía Nam”, đây là lời tuyên bố của Thủ
tướng Úc châu John Curten trong thời kỳ Đại chiến Thế giới thứ hai.
Vào đầu thập niên
1970, nhiều người Úc đến thẳng Miến Điện và Thái Lan để tu học và quy y
Phật giáo. Một số quay về Úc để giảng dạy. Cuộc đuổi bắt xuôi ngược nhộn nhịp
này diễn ra giữa Á châu và Úc châu, đã góp công vun xới và tăng cường sinh lực
cho nền triết học Đông phương tại Úc. Nhiều tu viện mọc lên. Từng đợt người tị
nạn tiếp nối nhau, họ là những người Việt Nam, Lào, Campuchia, Tây Tạng, rồi
tiếp theo lại có những người di dân Đài Loan, Hồng Kông và Singapore nhập bọn
và tạo ra cà một gia điệu đại diện đầy đủ những học phái lớn Phật giáo, điều
này lại càng hấp dẫn người Tây phương mạnh mẽ hơn nữa.
Nhờ những đóng góp của
người thế tục làm công quả, Phật giáo bước sâu hơn vào đời sống xã hội.
Vào năm 2001, những
người Phật giáo “không phải là dân sắc tộc thiểu số”, có nghĩa là dân có nguồn
gốc Âu châu, được hiệp hội Nghiên cứu Ki-tô giáo (Chiristian Research
Association) ước tính vào khoảng 30.000 người trên đất Úc châu, tức vào khoảng
8% đến 9% dân số. Ông Brian White cho biết như sau: “Ngày nay, tỷ lệ người quy
y Phật giáo cao hơn như thế rất nhiều, nhưng họ không nhất thiết phô trương cho
mọi người thấy tín ngưỡng của họ”. Ông Brian White là một người Phật giáo và là
chủ tịch Hội đồng cố vấn Phật giáo của tiểu bang New South Wales, ông quản lý
phần lớn những hội đoàn thuộc tiểu bang này. Ông còn nói thêm rằng: “Không có
con số thống kê chính thức nào cả, nhưng số người Phật giáo Úc châu có nguồn
gốc Tây phương chắc chắn cũng phải ba hay một phần tư tổng số Phật tử. Người
Tây phương càng lúc càng quan tâm nhiều hơn đến triết học và phương pháp tu tập
Phật giáo”. Chỉ cần nhìn vào con số gia tăng nhanh chóng của chùa chiền, tu
viện, thư viện, các trung tâm giảng huấn, an cư và những người gốc Tây phương
lui tới những nơi đó thì cũng đủ hiểu. Có khoảng 230 hiệp hội vào năm 1998,
ngày nay con số này đã tăng lên 570, các hội đoàn này được ghi trong niên giám
của trang web Bouddhanet.net, một trong những trang Internet đầy đủ nhất và
được nhiều người xem nhất. Khoảng 50.000 đến 100.000 mở xem trang web này mỗi ngày.
Trụ sở của “Vị Phật điện tử” tọa lạc trên một đỉnh đồi xanh tươi, cách thành
phố Sydney 800 cây số về phía Bắc, trong một tu viện mang tên Boddhi Tree (Cây
Bồ Đề). Vị giám đốc mới của trang web là nhà sư Bodhicitta, một người Úc còn
trẻ, quy y và giảng dạy trong các trường đại học và thường diễn thuyết chung
quanh đề tài “Tiến bộ kỹ thuật, Tính cách hiện đại và Đạo pháp”. Nhưng nếu nghĩ
rằng Phật giáo Úc châu tách rời khỏi xã hội, chỉ biết tập trung vào thiền định
và mạng Internet, là một điều sai lầm. Hàng tăng lữ ở Úc còn đi xa hơn các nước
khác nữa, họ hoạt động thật hăng say: nào là diễn thuyết, hội nghị, du học… Nhờ
vào sự giúp sức của những người thế tục làm công quả, họ trực tiếp tham dự vào
những sinh hoạt của các hội đoàn. Những người Phật giáo thay nhau thuyết giảng,
thăm viếng những người đau ốm và những người lâm vào cảnh tù đày. Họ giúp đỡ
sinh viên trong các trường đại học, kể cả việc giúp một tay… cho cảnh sát. Năm
vừa qua, nhà sư Ban Ruo Shi, người gốc Trung Quốc, là người Phật giáo đầu tiên
gia nhập vào số một trăm tuyên úy hợp tác với Sở Cảnh sát của tiểu bang New
South Wales, nếu công an cần đến họ. Nhà sư Ban Ruo Shi ăn mặc đồng phục màu
xanh dương đại diện cho luật pháp, nhưng huy hiệu trên áo lại có hình bánh xe
tượng trưng cho tín ngưỡng của ông. Ông hoạt động bên cạnh cảnh sát trong các
công tác bên ngoài và cả trong văn phòng, chỉ dẫn cho các sĩ quan công an về
cách thiền định, giúp đỡ tinh thần cho những ai cần đến ông, bất kể họ thuộc
tín ngưỡng nào.
Từ các trạm cảnh sát
của thành phố Sydney cho đến chốn rừng sâu của đảo Tasmania, từ những sa mạc đỏ
của vùng Ayers Rock cho đến những bãi cát dài bất tận trên bờ biển của thị trấn
Broome, Phật giáo bùng ra trên khắp miền đất Úc châu. Cho đến cả vùng đất trồng
nho ở Bendigo cũng đang xây dựng một tháp xá lợi lớn nhất trong thế giới phương
Tây. Các kiến trúc sư và các kỹ sư xây cất dự kiến “sức chịu đựng của tháp là
một ngàn năm”, tháp xây rập khuôn với tháp Gyangtse thế kỷ XV ở Tây Tạng. Tháp
sẽ thành hình vào năm 2010, cao 50m. Vị giám đốc chương trình xây dựng cho
biết: “Đây là dấu hiệu bất khả kháng về sự thiết lập của Phật giáo ở Tây
phương”, chính vị giám đốc này cũng là người đứng ra tổ chức chuyến viếng thăm
Úc châu lần thứ năm của Đức Đạt Lai Lạt Ma vào tháng Sáu vừa qua, nhân dịp này
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đến Bendigo để ban phép lành cho nền móng của tháp đang
xây cất, tên tháp là “Vô lượng Từ bi Đại Bảo Tháp”.
Ngoài ngọn tháp đang
xây dựng này, Úc châu còn có một ngôi chùa lớn nhất ở Nam bán cầu. Đó là ngôi
chùa Nam Thiên, vươn lên sừng sững trong phụ cận của thành phố kỹ nghệ
Wollongong. Vào lúc hừng đông, những người trong chùa ra sân luyện Thái cực
quyền bằng những điệu múa thật nhẹ nhàng để chào đón mặt trời đang ló dạng.
Vườn tược của chùa rộng hơn hai mẫu, cây cỏ được cắt xén cẩn thận. Chùa có
1.000 tượng Phật, mái chùa rộng mênh mông lợp bằng 185.000 miếng ngói màu đỏ
cam thật đẹp, tráng men bóng loáng. Chùa Nam Thiên trở thành một nơi du lịch
nổi tiếng, lễ khánh thành được tổ chức vào năm 1995, có ba vị bộ trưởng trong
chính phủ tham dự.
Tại trung tâm Thiền
định Aloka, hành giả chỉ được ăn một bữa cơm mỗi ngày.
Ngày nay, chùa được
quý Ni sư người Đài Loan quản lý và hàng nghìn người Úc đến viếng chùa với cả
gia đình, họ lưu lại trong một ngày Chủ nhật, hoặc an cư vài ngày hoặc ở lại
vài năm để tu học. Chùa giảng dạy về Phật giáo, thiền định, nấu cơm Tàu, viết chữ
Hán… kể cả việc kinh doanh. Tổ hợp Nan Tiên được trang bị một khách sạn gồm một
trăm giường, nhiều phòng diễn thuyết và hội nghị, và cả nơi tổ chức đám cưới.
Người ta cho biết rằng tất cả những tiện nghi này dành cho Phật tử hoặc những
người “có lòng tín ngưỡng thật sự” sử dụng. Nữ Tiến sĩ Judith Snodgrass (ghi
chú thêm của người dịch: Bà Judith Snodgrass là một Phật tử và cũng là một
chuyên gia lỗi lạc về Phật giáo) thuộc Đại học Western Sydney, bà giải thích
rằng Phật giáo tìm thấy một đà phát triển lớn lao tại Úc châu, chắc hẳn vì Úc
châu không chịu ảnh hưởng nặng nề của Tin Lành như trên đất Mỹ, và cũng không
mang gánh nặng lịch sử và truyền thống như ở Âu châu. Xã hội Úc hình thành từ
những phong trào di dân đã đứng lên đòi hỏi một nền văn hóa đa nguyên và thu
nạp những gì thích nghi không cần phải kiểu cách màu mè gì cả.
Sau hết, hình như cơ
duyên đưa đẩy và đem đến cho nền triết học hài hòa với thiên nhiên của Phật
giáo một tầm quan trọng lớn lao như hiện nay. Tại Úc từ nhiều năm, hạn hán xảy
ra trầm trọng chưa từng thấy trong lịch sử. Những vùng ruộng lúa trở thành sa
mạc, những bầy gia súc gầy còm bị đem đi giết; vì thiếu mưa, nhiều ngôi làng
sắp biến mất trên bản đồ. Nhà sư Mahinda vừa giễu cợt vừa thốt lên rằng: “Phải
cần bao nhiêu lít nước để nuôi một con bò để cho ra một miếng bít – tết?”.
Chính sư là vị trụ trì
của Trung tâm Thiền định Aloka, sư quyết định cắt cơm những bữa ăn của những
người đến tu học và chỉ cho phép họ được ăn mỗi ngày một bữa. Khía cạnh đạm bạc
này của Phật giáo có lẽ không phải là khía cạnh có thể hấp dẫn được người Úc
châu, nhưng đã gây ra một tiếng vang về môi sinh. Hầu hết dân chúng đều sống
trong những thành phố lớn dọc the oven biển và quay lưng lại với cây cỏ của
rừng khô, họ đang phải đối đầu với sự suy thoái của môi sinh. Sư Mahinda bảo
rằng: “Họ đang lo sợ thế giới này sẽ sụp đổ. Phật giáo giữ vai trò trấn an họ”.
Chính thức họ là những
người Thiên Chúa giáo, nhưng trong tim họ đã trở thành người Phật tử.
Năng hoạt, hướng về kẻ
khác và quan tâm đến môi sinh, ấy là đặc tính của người Phật giáo Úc châu, tuy
nhiên họ rất kín đáo không gây chú ý cho kẻ khác. Cần phải có những buổi triển
lãm ở các viện bảo tàng, hoặc trong những buổi lễ khánh thành một ngôi đại tự
chẳng hạn, hay một bài báo cho biết là những người Phật giáo từ đây đã bắt đầu
đông hơn những người Thiên Chúa giáo rửa tội, thì người ta mới bất chợt nhận ra
trong một thoáng nào đó, có một tôn giáo đang lớn mạnh trong yên lặng. Ông
Brian White giải thích như sau: “Những gì ta thấy được hay nghe được về Phật
giáo chỉ là phần ló trên mặt nước của một ngọn núi băng trên Bắc cực”. Và nhất
là Phật giáo không khuyên người khác phải bỏ đạo để theo đạo khác, cho nên
người Úc châu thường tuyên bố họ theo cả hai “nhà thờ” một lượt. Do đó đã sinh
ra một loại tín đồ mới gọi là Thiên – Chúa – Phật – giáo hay Do – Thái – Phật –
giáo. Chẳng hạn như trường hợp Ni sư Robina Curtin. Người phụ nữ này đã 62
tuổi, lớn lên trong một gia đình Thiên Chúa giáo đầy hung bạo, gồm bảy người
con. Ngày còn rất trẻ, bà đã muốn noi theo gương của Bà Thánh Thérèse de
Lisieux để đi tu. Nhưng khi lớn lên, bà lại trở thành một thành viên hoạt động
cho một nhóm cực tả bênh vực nữ quyền và đồng tính luyến ái. Sau đó bà lại học
võ thuật, rồi trở thành Ni sư và… hộ vệ viên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngày nay,
bà đang điều khiển một dự án Nhà tù Giải phóng (Liberation Prison Project), một
hiệp hội giúp đỡ tù nhân, do chính bà đứng ra thành lập, hiệp hội phân phát
sách vở, trao đổi thư từ với tù nhân, thăm viếng hàng nghìn người bị giam giữ
trong hàng trăm trại giam ở Hoa Kỳ, Úc châu, Phi châu, Thái Lan… không phải để
huấn dụ họ theo về với Phật giáo nhưng chỉ để giúp họ tìm lại chính con đường
của họ. Ni sư Robina Courtin nói với mọi người rằng càng đi sâu vào Phật giáo
bà lại càng đánh giá cao hơn nền giáo dục nguyên thủy mà bà đã được hưởng.
Trường hợp của bà Elisabeth cũng thế, bà thường dẫn đứa con gái nhỏ của bà đến
chơi đùa với đàn mèo trong sân chùa Sze Yup. Bà nói rằng: “Tôi vẫn giữ lề lối
của một người Thiên Chúa giáo để tránh gây chấn động cho cha mẹ tôi, nhưng
trong tim, tôi là một Phật tử… Trong lần kiểm kê dân số vừa qua, tôi không gạch
chéo vào một ô nào cả. Chính phủ không cần phải biết tôi theo tôn giáo nào”.
Lại thêm một Phật tử nữa lọt qua mạng lưới…
(Cavicu ST-TH)
Post a Comment